Tịnh Độ – Con đường niệm Phật cầu vãng sinh
1. Khái niệm Tịnh độ
Tịnh độ (Sukhāvatī trong tiếng Phạn) thường được hiểu là cõi Cực Lạc – cảnh giới thanh tịnh, an vui vô biên do Đức Phật A Di Đà kiến lập. Trong kinh điển Đại thừa, đặc biệt là Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, cõi Tịnh độ được mô tả là nơi không có khổ đau, người sinh về đó đều được nghe pháp, gần gũi thiện tri thức, tiến tu không thoái chuyển cho đến khi thành Phật.
2. Nguồn gốc và phát triển
Ấn Độ: Tư tưởng về cõi Phật thanh tịnh vốn xuất hiện trong các kinh điển Đại thừa từ thế kỷ 1–2 sau Công nguyên.
Trung Hoa: Khoảng thế kỷ 4, pháp môn Tịnh độ bắt đầu được hệ thống hóa, đặc biệt với ngài Huệ Viễn ở Lô Sơn, sáng lập Bạch Liên Xã – hội chuyên tu niệm Phật cầu vãng sinh.
Việt Nam: Pháp môn Tịnh độ phổ biến từ lâu trong dân gian, nhất là qua phong trào niệm Phật A Di Đà và các hội niệm Phật ở chùa, ở làng. Đây là pháp môn gần gũi, dễ thực hành nên rất được tín đồ ưa chuộng.
Tín: Tin chắc có cõi Cực Lạc, tin nguyện lực của Phật A Di Đà, tin mình có khả năng vãng sinh.
Nguyện: Phát nguyện thiết tha được sinh về cõi ấy để tiếp tục tu hành.
Hạnh: Thực hành niệm danh hiệu Phật “Nam Mô A Di Đà Phật” nhất tâm bất loạn.
Ngoài niệm Phật, người tu còn giữ giới, hành thiện, tụng kinh, phát tâm từ bi để hồi hướng công đức về Tịnh độ.
4. Ý nghĩa tu tập
Đối với cá nhân: Giúp người bình thường có niềm tin, có chỗ nương tựa, bớt sợ hãi trước vô thường và cái chết.
Đối với xã hội: Khuyến khích đời sống đạo đức, hướng thiện, nuôi dưỡng tâm từ bi và tinh thần cộng đồng qua các hội niệm Phật, lễ cầu siêu, khóa tu Tịnh độ.
Đối với Phật giáo: Là một trong những pháp môn phổ biến nhất, dễ hành trì, thích hợp cho nhiều tầng lớp, đặc biệt là người tại gia bận rộn.
Niệm Phật hằng ngày (theo thời khóa sáng – tối hoặc trong sinh hoạt thường nhật).
Tụng kinh A Di Đà, Quán Vô Lượng Thọ.
Giữ tâm từ bi, làm việc thiện, hồi hướng công đức cầu sinh Cực Lạc.
Tham gia đạo tràng, hội niệm Phật để trợ duyên và tạo sức mạnh cộng tu.